This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Phát triển vật liệu xây không nung tại Gia Lai vẫn khó khăn

Thống kê của Sở Xây dựng cho thấy, tổng sản lượng sản xuất gạch nung trên địa bàn tỉnh trung bình khoảng 66,3 triệu viên/năm, ngoài ra còn phải nhập thêm từ Bình Định, Kon Tum và các tỉnh lân cận. Trong khi đó nguyên liệu sản xuất VLXKN chủ yếu là từ cát, đá, xi măng, đá mạt... thì điều kiện tự nhiên của Gia Lai rất thuận lợi, nhưng vẫn chưa có nhà đầu tư nào đầu tư cho loại hình sản xuất vật liệu này.

Nhắc đến xây dựng thì gạch nung là vẫn là vật liệu xây dựng truyền thống ở Việt Nam, trong khi các nước trên thế giới hiện nay đã áp dụng hoàn toàn sử dụng VLXKN, đem lại hiểu quả kinh tế cao. Vấn đề ở đây là nhận thức của người dân chưa hiểu hết được những ưu điểm, các nhà tư vẫn thiết kế chưa hòa nhập được thói quen sử dụng VLXKN.

Hầu hết tư duy trong kinh doanh “có cầu mới có cung”. Trong khi theo báo cáo của Sở xây dựng, việc thiếu nguồn cung ứng, nhà đầu tư sản xuất gạch không nung lại chính là điểm bất cập trong việc triển khai Quyết định số 567/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình phát triển vật liêu xây không nung, Chỉ thị số 10/CT-TTG về việc tăng cường sử dụng VLXKN.

Ông Lê Vinh, Giám đốc Sở Xây dựng Gia Lai cho biết, “Triển khai Quyết định số 567/QĐ-TTg, Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Công văn của UBND tỉnh về chương trình phát triển VLXKN, Sở Xây dựng đã có nhiều biện pháp phối hợp với các cơ quan, Sở, ban ngành trên địa phương, tuyên truyền, xây dựng những chính sách ưu đãi về thuê đất, thuế....

Quán triệt các lò gạch sản xuất theo định mức giảm dần... nhưng hiện vẫn chưa có nhiều tiến triển do thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân không thể là một sớm, một chiều. Hơn nữa chưa có nhà đầu tư nào sản xuất VLXKN trên địa bàn tỉnh, việc chuyển, nhập từ các địa phương khác làm cho giá cao hơn so với gạch đất sét nung và cũng không đủ đáp ứng nhu cầu xây dựng của tỉnh”.

Phát triển vật liệu xây không nung tại Gia Lai vẫn khó khăn
Một số hình ảnh về VLXKN

Giá và chất lượng là tiêu chí đầu tiên của người tiêu dùng

Ông Hoàng, chủ một ngôi nhà đang xây dựng trên đường Lê Duẩn (Pleiku, Gia Lai) cho hay, “Tôi làm nhà chọn gạch đầu tiên là chất lượng gạch sau đó đến giá. Tôi chưa biết nhiều đến VLXKN, tôi chọn gạch Tuynel để xây vì loại gạch này có chất lượng và cũng thấy nhiều người dùng”.

“Phần lớn, những người đến mua gạch đều hỏi về chất lượng song song với giá, chọn loại nào tùy thuộc vào so sánh chất lượng với túi tiền. Những công ty xây dựng thì quan tâm hàng đầu của người ta đều là giá. Tôi cũng có nói sơ qua về gạch không nung nhưng người mua đều từ chối, do chủ nhà không tin tưởng mấy vào loại gạch mới này”. Bà Ngọc, chủ của hàng bán VLXKN (Pleiku, Gia Lai) chia sẻ.

Theo ông Toàn, Giám đốc Công ty Tư vấn Thiết kế La Belle, “Cần có công tác tuyên truyền trực tiếp đến người tiêu dùng để thấy được những ưu điểm về chất lượng của VLXKN so với gạch nung, như có tính chịu nhiệt cao, cách âm, cách nhiệt tốt; đa dạng loại hình, nhiều màu sắc, kích thước khác nhau thích ứng tính đa dạng trong xây dựng...”.

“Tôi làm tư vấn thiết kế nhưng những vật liệu xây dựng cũng phải thông qua chủ nhà, chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ tư vấn thôi”, ông chia sẻ thêm.

Thị trường tiềm năng sẽ thu hút nhà đầu tư

Điều kiện tự nhiên Gia Lai có nhiều khoáng sản như đá vôi (đã phát hiện được 6 điểm, trong đó có triển vọng nhất là mỏ đá vôi Chư Sê), đá bazan (Chư Sê, Plâycu, Chư Păh), đá granit (Chư Sê, ở Bắc Biển Hồ, An Khê, La Khươi), tại nhiều mỏ đá có thể tận dụng đá mạt... thuận lợi trong sản xuất VLXKN, giảm được chi phí vận chuyển từ địa phương khác, giảm chi phí sản xuất.

UBND tình Gia Lai đã xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi về thuê đất, lãi suất vay..., giảm chi phí đầu tư. Tuy nhiên để nhà đầu tư thấy được đây là loại hình sản xuất tiềm năng thay thế cho gạch nung trong tương lai mới là mấu chốt. Theo định hướng phát triển đô thị ở Gia Lai tầm nhìn đến năm 2030, sẽ tăng nhu cầu về VLXD.

Theo Công văn số 500 của UBND tỉnh Gia Lai, kể từ năm 2015 sẽ sử dụng 50% VLXKN tại đô thị loại 3, các khu vực còn lại sử dụng tối thiểu 30% VLXKN đối với các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Như vậy khung pháp lý, cơ chế để buộc đưa VLXKN vào trong xây dựng đã có, nghĩa là buộc thị trường phải có nhu cầu. Thị trường có nhu cầu tất yếu có lợi nhuận.

Hiện tại, UBND tỉnh Gia Lai cũng đang khẩn trương xây dựng Kế hoạch tăng cường sử dụng VLXKN và Lộ trình giảm dần việc sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung và chấm dứt sản xuất gạch đất sét bằng lò thủ công, lò thủ công cải tiến...

Ngành thép sẽ bị phá sản khi ký VCUFTA: Bộ Công Thương phản hồi

Vụ Thị trường châu u cho biết, Hiệp định VCUFTA được trông đợi sẽ tạo cơ hội thúc đẩy việc xuất khẩu mạnh mẽ hàng hóa Việt Nam sang thị trường các nước Nga và SNG vốn có nhiều tiềm năng nhưng thực tế hoạt động thương mại giữa hai bên còn đang hạn chế.

Trong quá trình đàm phán Hiệp định này, phía Liên minh Hải quan (Liên minh) cũng đặt ưu tiên hàng đầu việc xuất khẩu sang Việt Nam các mặt hàng công nghiệp như sắt thép, săm lốp, máy móc thiết bị...

Việc đàm phán mở cửa thị trường sẽ trên cơ sở cân bằng lợi ích tổng thể giữa hai bên; trong đó Việt Nam đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu các mặt hàng dệt may, thủy sản, da giày và một số loại nông sản khác mà Việt Nam có ưu thế. Riêng đối với các mặt hàng thép, trong số nhiều mặt hàng sắt thép phía Liên minh yêu cầu ưu tiên cắt giảm thuế quan, chỉ có một số loại thuộc danh mục do Hiệp hội Thép đề nghị bảo lưu lộ trình cắt giảm thuế.

Ngành thép sẽ bị phá sản khi ký VCUFTA: Bộ Công Thương phản hồi
Thông tin về ngành thép nội sẽ bị phá sản khi Hiệp định VCUFTA là không có căn cứ.

Như vậy về tổng thể, phía Liên minh có thể cung cấp cho ta nhiều mặt hàng sắt thép mà Việt Nam không sản xuất, phía Liên minh sẽ phải tự cạnh tranh với các đối tác khác trên thị trường Việt Nam. Đồng thời, hai bên đều thống nhất việc đàm phán phải theo nguyên tắc trao đổi có đi có lại, xét trên tổng thể cân bằng lợi ích chung; cho phép có lộ trình cắt giảm thuế nhất định đối với một số mặt hàng thuộc Nhóm các mặt hàng nhạy cảm của các bên (tức là không phải đưa ngay về mức thuế suất 0% khi Hiệp định có hiệu lực).

Đối với Việt Nam, cam kết trong Hiệp định VCUFTA này sẽ không gây ảnh hưởng tới các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã và đang đàm phán.

Cũng theo Vụ Thị trường châu u, Nga là đất nước rộng lớn và những trung tâm sản xuất thép của Nga tập trung ở miền Trung nước Nga, cách Viễn Đông xa hơn khoảng cách từ Viễn Đông đến Việt Nam.

Trên cơ sở đó có thể kết luận, việc chuyên chở sắt thép từ các nhà máy này, qua Viễn Đông và về Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh được với các mặt hàng sắt thép tương tự đang lưu hành trên thị trường Việt Nam.

Tiêu thụ xi măng bất ngờ tăng mạnh

 Bức tranh toàn ngành xi măng năm 2014 khả quan hơn các năm trước khi từ quí III/2014, nhiều doanh nghiệp xi măng trong nước bắt đầu có lãi.

Tiêu thụ xi măng năm 2014 dự kiến tăng gần 11,5% so với năm 2013, với tổng mức tiêu thụ 68 triệu tấn, trong đó tiêu thụ trong nước 49 triệu tấn và xuất khẩu 19 triệu tấn. Sau ba năm trầm lắng, nhiều doanh nghiệp xi măng chuyển từ lỗ sang có lãi. 

Theo số liệu của Vụ Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, Công ty Cổ phần Xi măng Hà Tiên 1 trong quí III/2014 lãi 99 tỉ đồng (quí III/2013 Công ty lỗ 72 tỉ đồng). Lợi nhuận ròng của Công ty Cổ phần Xi măng Vicem Bút Sơn quí III/2014 là 24,5 tỉ đồng (quí 4/2013 lỗ 177 tỉ đồng). Lợi nhuận của Công ty Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn quí III/2014 là 16,5 tỉ đồng (quí 4/2013 lỗ gần 51,6 tỉ đồng) ...

Tiêu thụ xi măng bất ngờ tăng mạnh
Tiêu thụ xi măng năm 2014 ước đạt 68 triệu tấn - Ảnh: Văn Nam.

Hiện nay cả nước có gần 70 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất mỗi năm gần 70 triệu tấn và trong năm 2014 này sẽ có thêm 5 nhà máy đưa vào vận hành với công suất tăng thêm khoảng 7 triệu tấn.

Ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng cho biết tiêu thụ xi măng nội địa trong 11 tháng đầu năm tương đối khả quan với gần 46,2 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ. Trong thời gian này, xuất khẩu cũng đạt 18,3 triệu tấn, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm ngoái.

Như vậy, 11 tháng đầu năm ngành xi măng bán được gần 64,5 triệu tấn (tăng 16% so với cùng kỳ năm 2013) và đã “về đích” trước một tháng so với kế hoạch ban đầu.

Các chuyên gia trong ngành công nghiệp vật liệu xây dựng nhận định sức tiêu thụ nội địa toàn ngành xi măng sẽ tiếp tục có sự hồi phục mạnh trở lại trong năm sau.

Tiêu thụ thép xây dựng năm 2014 ước tăng trên 10%

Trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, ông Nguyễn Văn Sưa, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), cho biết lượng thép xây dựng tiêu thụ trong 11 tháng đầu năm đạt 4,73 triệu tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo ông Sưa, kế hoạch ban đầu của ngành thép năm nay chỉ đặt mục tiêu tăng mức tiêu thụ thép xây dựng khoảng 5% so với năm ngoái. Tuy nhiên, sức mua những tháng gần đây cho thấy ngành thép xây dựng có thể đạt mức tăng trưởng trên 10% trong năm nay.

Theo VSA, tiêu thụ thép xây dựng năm 2013 đạt 4,95 triệu tấn, giảm 9,43% so với năm 2012.

Tiêu thụ vật liệu xây dựng chậm trong tháng 7

Khảo sát tại các đại lý cho thấy, các cửa hàng VLXD ở Hà Nội trên đường Hoàng Quốc Việt, Đê La Thành, Minh Khai, Thanh Nhàn…, lượng khách đến mua hàng không lớn.

Chị Bùi Thu Thủy, chủ cửa hàng sắt thép xây dựng (phố Thanh Nhàn) cho biết, bước vào mùa xây dựng năm nay, giá sắt thép đã tăng khoảng từ 5-10% tùy loại, do ảnh hưởng của chi phí vận chuyển và việc lưu kho bãi. Nhìn chung, lượng khách mua hàng vẫn thấp, chỉ tăng nhẹ từ 5-10% so với thời gian đầu năm. Từ đầu tháng 7 đến giờ, ít người khởi công xây dựng nên thị trường càng ế ẩm.

Còn vào thời điểm này, dù tháng cô hồn đã qua, nhưng tiêu thụ vẫn không nhích lên là bao do mùa mưa lại đang bắt đầu. “Trước kia, cửa hàng của tôi thường thuê 3-4 người làm. Giờ ế ẩm, hàng tiêu thụ ít, lãi chả đáng là bao nên phải cho nhân viên nghỉ hết. Việc vận chuyển, mang vác hàng bây giờ đều do các thành viên trong gia đình tự làm lấy”, chị Thủy nói.

Vật liệu xây dựng tiêu thụ chậm trong tháng 7
Trong tháng 7, tiêu thụ vật liệu xây dựng chậm

Còn theo anh Trần Văn Thao, chủ thầu xây dựng ở Khoái Châu (Hưng Yên), thông thường đây là thời điểm anh nhận được ít công trình nhất trong năm, vì thời tiết nắng nóng lại mưa nhiều. Là một nhà thầu nhỏ, chuyên xây dựng các công trình nhà cửa riêng lẻ, có quy mô nhỏ trong dân nhưng vào mùa này, anh phải căn ke mới có đủ việc cho thợ làm. Công việc ít đồng nghĩa với lượng VLXD tiêu thụ không nhiều.

Nhận định về tình hình trên, ông Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD cho biết, cách đây vài tháng, các loại VLXD như sắt, thép, gạch ốp... nhìn chung sức mua đều đã có những chuyển biến, tăng nhẹ so với một vài năm trước, song vẫn chỉ giữ được mức tiêu thụ từ 30-50% so với công suất sản xuất. Đặc biệt, xi măng đã có mức tiêu thụ tốt hơn cả và vẫn giữ được khoảng 80% công suất thiết kế nhờ thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, ông Huynh cho rằng, các mặt hàng vật liệu trong nước vẫn phải đối mặt với việc thị trường BĐS chưa sôi động trở lại, trong khi giá vật liệu tăng do chi phí đầu vào cao. Cộng với những diễn biến về thời tiết đã phần nào khiến việc tiêu thụ của mặt hàng này chững lại.

Riêng với sản phẩm thép xây dựng, đại diện Công ty Thép Việt - Úc cho rằng, BĐS chưa được sôi động trở lại đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ các loại VLXD, trong đó có thép. Bên cạnh đó, một vấn đề khác được các doanh nghiệp kiến nghị nhiều trong những năm qua là làm sao để hạn chế gian lận thương mại, nhập khẩu thép chứa nguyên tố Bo để trốn thuế thì cơ quan chức năng thực hiện chưa tốt. Hiện lượng thép nhập khẩu chứa nguyên tố Bo ước tính chiếm trên 10% lượng thép tiêu thụ ở Việt Nam và gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiêu dùng thép trong nước.

Các chuyên gia đánh giá, năm nay vẫn là một năm đầy khó khăn cho ngành VLXD. Việc cắt giảm công suất hay giảm nhân lực chỉ là giải pháp tình thế trước mắt. Về lâu dài, theo ông Huynh, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn vào việc tìm đường xuất khẩu cho các sản phẩm của mình.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần sớm có những giải pháp để cứu thị trường bất động sản, cũng là cứu doanh nghiệp VLXD, giúp các doanh nghiệp vừa kích cầu, giảm cung và có cơ hội tiếp cận thị trường.

Đẩy mạnh triển khai sử dụng VLXKN tại Gia Lai

Tuy nhiên, hiện nay số lượng các nhà đầu tư quan tâm, tìm hiểu quy trình sản xuất gạch không nung, có ý định đầu tư sản xuất còn ít.

Việc điều chỉnh chủng loại vật liệu sẽ ảnh hưởng đến tổng mức đầu tư và tiến độ khởi công các dự án sử dụng vốn ngân sách của tỉnh Gia Lai đã được phê duyệt. Đây được coi là những nguyên nhân chính khiến việc sử dụng (VLXKN trên địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Chính phủ còn nhiều hạn chế so với các địa phương khác trong cả nước.

Theo nội dung chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện của UBND tỉnh Gia Lai thì những VLXKN bao gồm: gạch xi măng cốt liệu, gạch nhẹ… Khác với sản xuất gạch truyền thống (gạch nung) là phải sử dụng nguyên liệu đất sét và dùng nhiên liệu như than, củi để đốt, thải ra khói, gây ô nhiễm môi trường, gạch không nung chỉ sử dụng xi măng, cát, mạt đá và chất phụ gia…

Việc sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung truyền thống là một xu hướng phát triển tất yếu do loại sản phẩm này có nhiều ưu điểm vượt trội, như: không dùng đất sét để sản xuất mà tận dụng phế thải công nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm nhiên liệu (như than, củi, dầu DO)… Sản phẩm có khả năng cách âm, cách nhiệt, chịu nhiệt tốt, bền, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm thời gian thi công, một số loại gạch nhẹ có tỷ trọng thấp, qua đó giảm tải trọng công trình và tiết kiệm chi phí xây dựng. Do vậy, VLXKN được xem như loại vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường và đang được Nhà nước khuyến khích sản xuất, sử dụng để thay thế gạch đất sét nung truyền thống.

Đẩy mạnh triển khai sử dụng VLXKN tại Gia Lai
Gia Lai đẩy mạnh triển khai sử dụng VLXKN

Theo đề xuất của Sở Xây dựng về lộ trình sử dụng VLXKN, đã được sự đồng ý của UBND tỉnh, từ năm 2015, tại các công trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước buộc phải sử dụng 50% vật liệu không nung (đối với các các đô thị loại III) và tại các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 30%. Đối với các công trình xây dựng từ 9 tầng trở lên không phân biệt nguồn vốn; từ năm 2015, phải sử dụng tối thiểu 30% và sau năm 2015 sử dụng tối thiểu 50% VLXKN loại nhẹ trong tổng số vật liệu xây (tính theo thể tích khối xây).

Trên địa bàn tỉnh Gia Lai có nhiều nguồn nguyên liệu thích hợp cho việc phát triển sản xuất gạch không nung như xi măng, cát, bột đá, đất đồi… Nhưng số lượng các nhà đầu tư quan tâm, tìm hiểu quy trình sản xuất gạch không nung, có ý định đầu tư sản xuất còn ít. Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có nhà máy sản xuất gạch xi măng cốt liệu, các dự án đang triển khai có dự án sản xuất VLXKN của Xí nghiệp Khảo sát Thiết kế - Tổng Công ty 15, có quy mô dự kiến 20 triệu viên QTC/năm đã thực hiện thẩm định dự án, TKCS.

Thêm nữa là một số cơ sở sản xuất gạch xi măng cốt liệu ở quy mô nhỏ, sản phẩm chưa được công bố hợp quy, hợp chuẩn, chủ yếu phục vụ nhu cầu xây dựng nhà ở riêng lẻ. Đối với gạch bê tông khí chưng áp thì chỉ có Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất và Thương mại Hoa Đá - Chi nhánh TP.Pleiku đã đầu tư dây chuyền sản xuất với công suất khoảng 1 triệu viên/năm.

Vừa qua, Sở Xây dựng tỉnh đã chủ động xây dựng giá của gạch không nung để đưa vào công bố giá vật liệu hàng tháng của Liên sở Xây dựng - Tài chính, dựa trên cơ sở giá cung cấp của các đơn vị sản xuất trên địa bàn các tỉnh lân cận. Việc giãn tiến độ sử dụng VLXKN nhằm tháo gỡ vướng mắc hiện nay và tạo điều kiện cho các địa phương, các nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh có thời gian chuẩn bị đầu tư sản xuất VLXKN.

Vật liệu không nung: Rộng cửa đầu tư, hẹp đầu ra

Số liệu thống kê về Quản lý Nhà nước từ Bộ Xây dựng cho thấy, hiện cả nước có  trên 1.000 dây chuyền sản xuất gạch xi măng cốt liệu công suất trên 10 triệu viên QTC/năm và một số chủng loại vật liệu không nung khác, với tổng công suất thiết kế đạt gần 6 tỷ viên QTC, 13 nhà máy sản xuất gạch bê tông khí chưng áp, 17 nhà máy sản xuất bê tông bọt.

Với chi phí đầu tư rẻ, thời gian đầu tư ngắn, nên tốc độ đầu tư sản xuất gạch xi măng cốt liệu trong thời gian vừa qua tăng rất nhanh.

Sản phẩm vật liệu không nung có chất lượng ổn định và các doanh nghiệp sản xuất cũng đã hoàn toàn làm chủ được công nghệ sản xuất các loại vật liệu xây không nung. Nhưng mặc dù công nghệ thì tự chủ, các doanh nghiệp có khả năng cung ứng sản phẩm cho thị trường nhưng việc tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây không nung vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

Vật liệu không nung: Rộng cửa đầu tư, hẹp đầu ra
Vật liệu xây dựng

Cụ thể, về gạch bê tông khí chưng áp, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bình quân chỉ đạt 30-40% so với công suất thiết kế, trong đó có tới 70-80% sản lượng sản xuất được công ty cho xuất khẩu.

Về gạch bê tông (cách gọi khác là gạch block xi măng cốt liệu) thì công suất sản phẩm có khá hơn, đạt khoảng 80-85% so với công suất thiết kế.

Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện đang có 5 doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây không nung thì cả 5 doanh nghiệp này đều sản xuất không hết công suất thiết kế và lượng hàng tồn kho vẫn còn lớn.

Chẳng hạn, Công ty CP Dịch vụ môi trường Đông Khê tại xã Hoàng Quế, huyện Đông Triều có dây chuyền sản xuất gạch xi măng cốt liệu với công suất tương đương 42 triệu viên gạch quy tiêu chuẩn (QTC)/năm nhưng hiện tại, công suất sản xuất mới chỉ trong khoảng trên dưới 10 triệu viên/năm và lượng sản phẩm tồn kho thì luôn ở mức 30%. Hay như Công ty CP Thương mại và Sản xuất vật liệu xây dựng xanh, Cảng Cái Lân, TP. Hạ Long, với năng lực sản xuất khoảng 45 triệu viên QTC/năm, nhưng hiện tại, cũng chỉ sản xuất và tiêu thụ được khoảng 20% so với công suất thiết kế.

Theo số liệu từ Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), tổng công suất đầu tư vật liệu xây không nung cho đến hết năm 2013 đã hoàn toàn đảm bảo cung cấp sản phẩm để đạt và vượt mục tiêu của Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020.

Bộ Xây dựng cũng chính thức yêu cầu các Tổng Công ty, Công ty trực thuộc Bộ nghiêm túc thực hiện các quy định để gia tăng sử dụng các loại vật liệu này trong những năm tới nhằm đưa vật liệu xây không nung vào đại trà các dự án xây dựng.

Cụ thể, người quyết định đầu tư phải có trách nhiệm quy định sử dụng vật liệu xây không nung trong xây dựng công trình theo quy định khi quyết định đầu tư dự án. Chủ đầu tư, Nhà thầu thi công xây dựng phải có trách nhiệm sử dụng các loại vật liệu không nung phù hợp với quy định đã ban hành.

Nhà thầu tư vấn giám sát có trách nhiệm giám sát việc sử dụng vật liệu xây không nung phải theo đúng quy định của thiết kế nhằm đảm bảo chất lượng công trình.

Với các trường hợp là các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư xây dựng công trình phải đảm bảo việc sử dụng vật liệu xây không nung theo đúng các quy định và đây là yêu cầu bắt buộc.

Lượng tiêu thụ xi măng nội địa tăng nhẹ trong tháng 7

Tuy nhiên, giá các chủng loại xi măng vẫn giữ ổn định. Lượng xi măng tiêu thụ phân bố theo các khu vực không có sự biến động nhiều. Dẫn đầu về lượng tiêu thụ là thị trường miền Bắc, tiếp đến là thị trường miền Nam và miền Trung.

Lượng tiêu thụ xi măng nội địa tăng nhẹ trong tháng 7
Chi tiết tỉ lệ tiêu thụ xi măng giữa các vùng miền.

Trong tháng 7, tổng lượng xi măng tiêu thụ nội địa đạt 4.425.448 tấn, tăng 12% so với tháng 6/2014 và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2013. Cụ thể, phân theo các khối có mức tăng tương ứng so với tháng 6 như sau: Khối Tổng Công ty Vicem tăng 16%; khối liên doanh tăng 14% và khối các Công ty + Trạm nghiền tăng 11%; trong đó, dẫn đầu về mức tiêu thụ trong các khối là các đơn vị: Vicem HT, Xi măng Nghi Sơn, Xi măng Sông Gianh...

Tại thị trường xuất khẩu, tổng lượng xi măng và clinker xuất khẩu trong tháng 7 đạt 1.151.565 tấn, trong đó xi măng đạt 396.603 tấn và clinker đạt 754.962 tấn; so với tháng 6, lượng xuất khẩu xi măng tăng 31% và clinker tăng 9%.

Lượng tiêu thụ xi măng nội địa tăng nhẹ trong tháng 7 1
Tháng 7/2014: Xi măng tiêu thụ nội địa tăng 14% so với cùng kỳ 2013

Đến cuối tháng 7, lượng tồn kho: Xi măng là 0,56 triệu tấn, Clinker là 1,87 triệu tấn.

Về tình hình tiêu thụ, ông Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD nhận định, cách đây vài tháng, các loại VLXD như sắt, thép, gạch ốp... nhìn chung sức mua đều đã có những chuyển biến, tăng nhẹ so với một vài năm trước, song vẫn chỉ giữ được mức tiêu thụ từ 30-50% so với công suất sản xuất. Đặc biệt, xi măng đã có mức tiêu thụ tốt hơn cả và vẫn giữ được khoảng 80% công suất thiết kế nhờ thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu.

Tuy chưa có con số cụ thể, chính xác cho tháng này nhưng theo dự kiến trong tháng 8/2014, mức tiêu thụ nội địa sẽ giảm nhẹ so với tháng trước.